New Year Cards for Thu Duc Military Academy – Thiệp chúc Tết của trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
Trường Bộ binh Thủ Đức – Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức được xây dựng
trên đồi Tăng Nhơn Phú, xã Linh Xuân Thôn, Q. Thủ Đức, Tỉnh Gia Định
(khu vực ngày nay là Phường Tăng Nhơn Phú A, Q. Thủ Đức, nơi có trường
ĐH Giao Thông Vận Tải Cơ sở _______________________________________
Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, Liên trường Võ khoa Thủ Đức hay còn gọi
là Trường Bộ binh Thủ Đức (đầu tiên ở Thủ Đức, đến cuối năm 1973 thì
chuyển đến Long Thành) là một trong bốn trường đào tạo Sĩ quan cho Quân
lực Việt Nam Cộng hòa, ba trường còn lại là Trường Võ bị Quốc gia Đà
Lạt, trường Huấn luyện Không quân Nha Trang và Trường Sĩ quan Hải quân
Nha Trang. Trường Thủ Đức hoạt động từ năm 1951 đến năm 1975.
Năm 1962, phù hiệu của Liên trường Võ khoa Thủ đức gồm ngọn lửa hồng
bao quanh thanh kiếm bạc trong nền xanh và được ghi thêm phương châm Cư
An Tư Nguy (Có nghĩa là muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm
nguy.
Suy rộng ra: “Muốn Hòa bình phải chuẩn bị Chiến tranh”) do sáng kiến
của Đại tá Phan Đình Thứ (tự Lam Sơn) đương nhiệm Chỉ huy trưởng của
trường.
==>
Tóm tắt lịch sử hình thành.
Do sắc lệnh của Quốc Trưởng Bảo Đại ký ngày 15 tháng 7 năm 1951, kêu gọi
tổng động viên: Thanh niên tuổi từ 18 đến 28 đều phải nhập ngũ. Những
người có bằng từ Cao đẳng Tiểu học trở lên sẽ nhập học khóa sĩ quan trừ
bị, vào thời điểm này Chính phủ Quốc gia Việt Nam tổ chức 2 vị trí để
thành lập Trường sĩ quan trừ bị: miền Bắc lập trường tại Nam Định gọi là
Trường sĩ quan trừ bị Nam Định và miền Nam lập tại Thủ Đức gọi là
Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức (trường Thủ Đức được xây dựng trên đồi
Tăng Nhơn Phú, xã Linh Xuân Thôn, Quận Thủ Đức, Tỉnh Gia Định). Cả hai
trường đều tuyển sinh và khai giảng khóa học đầu tiên cùng thời gian: 1
tháng 10 năm 1951. Khóa 1 Nam Định mang tên Lê Lợi và khóa 1 Thủ Đức
mang tên Lê Văn Duyệt.
Qua năm 1952, trường Nam Định được lệnh giải tán và sát nhập vào với
trường Thủ Đức. Cũng từ thời điểm này, thí sinh trên toàn Quốc gia nhập
ngũ vào sĩ quan trừ bị đều vào học tại Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức.
Khóa 2 được khai giảng vào ngày 15 tháng 10 năm 1952, từ khóa 1 đến khóa
5, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu uý, trường hợp thi tốt nghiệp với số
điểm thấp hơn quy định thì ra trường mang cấp bậc Chuẩn úy hoặc Trung sĩ
(hạ sĩ quan). Thiếu úy sau 2 năm được đương nhiên thăng cấp Trung úy và
Chuẩn úy sau 18 tháng được thăng cấp Thiếu úy, từ khóa 6, khóa sinh tốt
nghiệp chỉ mang cấp bậc Chuẩn úy. Sĩ quan xuất thân từ khóa này trở về
sau, không được áp dụng tiêu chuẩn lên cấp tướng. Cho nên, sau này chỉ
thấy cấp cao nhất là cấp Đại tá (Ngoại trừ trường hợp được xét chuyển
qua ngạch hiện dịch sẽ được hưởng quy chế lên tướng. Ngoài ra, các quân
nhân xuất thân từ trường Thiếu sinh quân và 4 khóa sĩ quan hiện dịch đặc
biệt thụ huấn ở Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế các năm từ 1959-1963 cũng
được hưởng quy chế này).
Đầu tháng 2 năm 1955, Trường gián đoạn tuyển sinh và đào tạo sĩ quan
trừ bị do ảnh hưởng của Hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 trong
điều khoản giảm trừ quân bị. Cuối tháng 2 năm 1957, Trường tái hoạt động
và được cải danh thành Liên trường Võ khoa Thủ Đức.
Tháng 10 năm 1961, các trường Chuyên môn được tách ra khỏi Liên
trường Võ khoa Thủ Đức (ngoại trừ 3 Trường Bộ binh, Thiết giáp và Thể
dục Quân sự).
Năm 1962, phù hiệu của Liên trường Võ khoa Thủ đức gồm ngọn lửa hồng
bao quanh thanh kiếm bạc trong nền xanh và được ghi thêm phương châm Cư
An Tư Nguy (Có nghĩa là muốn sống yên ổn thì phải nghĩ đến lúc hiểm
nguy. Suy rộng ra: “Muốn Hòa bình phải chuẩn bị Chiến tranh”) do sáng
kiến của Đại tá Phan Đình Thứ (tự Lam Sơn) đương nhiệm Chỉ huy trưởng
của trường.
Ngày 1 tháng 8 năm 1963, Trường lấy lại danh hiệu cũ lúc ban đầu là
Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Năm 1964, Trường lãnh thêm nhiệm vụ đào
tạo các cán bộ Đại đội trưởng và Tiểu đoàn trưởng (theo chương trình
học, khi mãn khóa được cấp văn bằng tốt nghiệp Đại đội trưởng hoặc Bộ
binh Cao cấp). Cũng kể từ năm này các thí sinh muốn trúng tuyển vào học
sĩ quan trừ bị phải có văn bằng Tú tài 1 trở lên hoặc chứng chỉ tương
đương. Ngày 1 tháng 7/ năm 1964 Trường được cải danh thành Trường Bộ
binh Thủ Đức
Trường đào tạo từ khóa 1 (1951) đến khóa 27 theo thứ tự từng năm
nhưng khi chiến cuộc leo thang, nhu cầu đòi hỏi nhiều sĩ quan khiến số
khóa tăng lên từ 2 khóa mỗi năm. Kể từ năm 1968 trở đi thì mỗi khóa được
gọi là “1/68”, “2/68”, “1/69”, “2/69″….,trong khuôn viên Trường có một
đài tưởng niệm gọi là Trung nghĩa Đài ghi bốn chữ “Tổ quốc ghi ơn.”, kể
từ năm 1968 công việc đào tạo sĩ quan trừ bị của Trường Thủ Đức được bổ
túc bởi Trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, thường gọi là
Trường Đồng Đế ở Nha Trang, cuối năm 1973, Trường Bộ binh Thủ Đức được
lệnh di chuyển về Huấn khu Long Thành, đến giữa tháng 4 năm 1975 lại di
chuyển về Thủ Đức.
Trường Bộ binh Thủ Đức giải thể vào năm 1975, khi Cộng sản xâm chiếm
Sài Gòn, trong thời gian hoạt động 1951-1975, Trường Thủ Đức đã đào tạo
hơn 80.000 sĩ quan trong đó khoảng 4.000 sĩ quan đặc biệt.
ST
No comments:
Post a Comment